Trang

Thạch Động


Núi Đá Dựng tức núi Châu Nham thuộc xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Nằm về phía Tây Bắc của núi Thạch Động, cách trung tâm thị xã Hà Tiên khoảng 6 km. Đây là một trong những cảnh đẹp được Mạc Thiên Tứ ca ngợi qua bài Châu Nham lạc lộ. Đây cũng là khu căn cứ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến.

Từ thị xã Hà Tiên, du khách có thể đi theo quốc lộ 80 về hướng cửa khẩu Xà Xía, đến ngọn Thạch Động có một con đường rẽ phải. Theo con đường này đi mất hơn 1 km nữa là đến Đá Dựng. Danh thắng này nằm cách biên giới Việt Nam - Campuchia 4 km.
         Núi có hình thang cân, cao gần 100 m, trông xa như một khối đá vuông vức dựng giữa đồng bằng. Có lẽ vì thế mà có tên là Đá Dựng. Còn tên gọi Châu Nham có nghĩa là một dãy núi ngọc. Sở dĩ được gọi như vậy vì trong núi có loại thạch nhũ sáng lấp lánh, trông như ngọc. Sách Đại Nam nhất thống chí và Nam Kỳ địa dư chí thì chép: Khi Mạc Cửu mới đến khai phá đất Hà Tiên, có bắt gặp tại đây một viên bảo châu vuông một tấc, vô cùng quý giá, nên gọi là Châu Nham.
Khi Mạc Cửu mới đặt chân đến vùng đất này, núi Đá Dựng vẫn còn nằm sát biển, chung quanh là đầm lầy và cây cỏ. Đây là nơi hội tụ và sinh sống của các loài chim, nhiều nhất vẫn là cò trắng
         Vào mỗi buổi chiều, đứng từ xa nhìn về đỉnh núi, từng đàn cò lũ lượt kéo về đáp xuống tìm chốn nghỉ ngơi. Cảnh tượng ấy đã tạo nguồn cảm hứng cho Mạc Thiên Tứ viết nên bài vịnh Châu Nham lạc lộ.
          Trong núi có nhiều hang động kỳ bí, quyến rũ, gồm các hang chính như hang Mẹ Sanhhang Dơi,hang Cội Hàng Da, hang Trống Ngựchang Khổ Qua, hang Bồng Laihang Chỉ Huyhang Biệt Động...Hang Bồng Lai bốn mùa không khí trong lành, từ hang này ngước nhìn qua vòm núi có thể thấy mây trời bay lãng đãng, gió thổi rì rào như ru. Hang Trống Ngực, đưa tay lên vỗ nhẹ vào lồng ngực, ngay lập tức, du khách sẽ nghe được tiếng “tùng tùng” vọng lại từ vách đá nghe như tiếng trống. Hang Lầu Chuông có nhiều thạch nhũ mà khi gõ nhẹ vào sẽ tạo nên tiếng ngân trong như tiếng chuông âm vang trong gió. Hang Kim Quy có một khối đá giống hệt như con rùa, ngồi ở đây, nhìn qua Campuchia là ngút ngàn đồng ruộng và cây thốt nốt, gió thổi mát lạnh. Hang Mẹ Sanh là một thế giới huyền bí, đặt chân vào đây, du khách sẽ có cảm giác choáng ngợp,càng đi sâu vào, hang càng nhỏ dần, tới khi thấy mắt chói lòa mới biết mình đã chui ra khỏi hang từ lúc nào. Hang Khổ Qua với những khối thạch nhũ treo lủng lẳng như những trái khổ qua. Bước sang hang Sám Hối, du khách sẽ ngỡ ngàng và thích thú trước một bức tượng đá to lớn như dáng hình một nhà sư khoác áo cà sa, quay đầu vào vách đá suy tư. Từ hang Chỉ Huy tha hồ ngắm toàn cảnh Hà Tiên, gặp bữa đẹp trời, dùng ống nhòm có thể thấy cả Châu Đốc và Phú Quốc. Hang Xã Lộc Kỳ sâu và tối, lối vào hang thăm thẳm như xuống địa ngục. Hang thông với bên ngoài bằng một lối ra chỉ đủ cho một người đi lọt. Trong hang, có hai "giếng trời" như nắp hang thông lên bên trên với dây leo và lá xanh um. Dây leo rủ xuống như hai hai hàng mi của đôi mắt ánh sáng. Ánh sáng soi chiếu thạch nhũ đẹp, mê hoặc khách tham quan Đặc biệt hang Cội Hàng Da tương truyền là nơi sinh sống của Thạch Sanh. Ở trước cửa hang có nhiều phiến đá ghép mí, chồng khít lại với nhau tạo thành một mái vòm tự nhiên. Theo truyền thuyết, một buổi sáng xưa kia, từ nơi đây, Thạch Sanh đã giương cung bắn chim đại bàng đang cắp nàng công chúa bay ngang qua núi Đá Dựng. Về sau, Lý Thông đã lừa nhốt Thạch Sanh vào trong hang núi và cho người bịt kín miệng hang lại. Không còn lối thoát, Thạch Sanh đã tiêu sầu bằng cách gõ vào các thạch nhũ và nó đã phát ra những âm thanh trầm bổng bay theo gió đến tận cung điện nhà vua, khiến cho công chúa Quỳnh Nga nghe được và xin vua cha cho quân lính đến giải nguy cho Thạch Sanh.

Mạc Cửu



Mạc Cửu người quê xã Lê Quách, huyện Khang Hải, phủ Lôi Châu (Quảng Đông) không phải là quan lại nhà Minh mà là thương nhân, cũng bỏ nước ra đi khi nhà Thanh chiếm Trung Quốc.

Ông là chủ thuyền buôn, đi lại buôn bán trên các tuyến đường biển từ Trung Quốc đến Philippine Bâtvia (Indonesia)..có lẽ do cộng tác chặt chẽ với Trịnh Thành Công ở Đài Loan. Khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được, ông lập nghiệp luôn ở Chân Lạp. Là một nhà buôn tháo vát, lanh lợi có tài kinh bang tế thế, nói thạo tiếng Chân Lạp, khoảng năm 1680, ông được vương quốc này là Nặc Nộn mời làm quan và phong cho chức Óc Nha. Thấy chính sự nước này rối ren, mà đất Mang Khảm(tên vùng đất Hà Tiên lúc ấy) thuộc tỉnh Peam (người Tàu gọi Phương Thành) có nhiêu thương nhân nước ngoài đến làm ăn buôn bán, tụ tập mở sòng bạc lấy xâu (gọi là thuế hoa chi). Ông xin đến khai thác, ông bao thầu thuế ấy, rồi lại đào được một hầm bạc chôn, nên mấy chốc trở lên giàu có, ông chô xây một tòa thành trên bờ biển, mở phố xá, chiêu mộ lưu dân đến ở các nơi: Phú Quốc, Cần Bột (Kampot), Rạch Giá (Gia Khê), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hương Ức (Vũng Thơm, Kompong Som) lập được bảy xã thôn.

Vào khoảng năm 1687, quân Xiêm đến cướp phá Hà Tiên, bắt ông cùng gia quyến đưa về Xiêm cho ở tại cảng Muang Galapuri (người Tàu gọi là Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau, nhân lúc nước Xiêm có loạn, ông trốn về Lũng Kỳ (Trũng Kỳ) rồi sau đó mới về được Mang Khảm. Ông bắt tay vào việc khôi phục Hà Tiên. Trước sự đe dọa của Xiêm và sự yếu kém của Chân Lạp, ông tìm chỗ nương tựa. Nghe lời khuyên của mưu sĩ, năm 1708, Mạc Cửu đem đất Hà Tiên dâng cho chúa Nguyễn. Việc này được Đại Nam liệt truyện, tập 1, quyển 6 của Quốc sử quán chép như sau:

"Mạc Cửu người Lai Châu, tỉnh Quảng Đông. Khi nhà Minh mất, người Thanh bắt dân cắt tóc. Mạc Cửu cứ để dài, đi sang Nam. Đến nước Chân Lạp, Cửu làm Óc Nha. Thấy phủ Sài Mạc có người Kinh, người Trung Quốc, người Chân Lạp và Chà Và buôn bán đông đúc, Cửu bèn dời đến ở Phương Thành, mở sòng bạc gọi là "hoa chi" để lấy hồ. Lại đào được hố bạc do đó vọt lên gàu có. Cửu chiêu tập dân xiêu tán ở Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Hương Úc và Cà Mau (Cà Mao), lập làm bảy xã thôn. Lại vì đất ở chỗ đó có người tiên ẩn hiện trên sông, nên gọi là Hà Tiên. Chỗ ấy gần núi, ven biển, có thể tụ tập buôn bán để sanh lợi. Gặp lúc người Xiêm xâm lấn Chân Lạp, người Chân Lạp vốn ươn nhát, gặp giặc là chạy. Tướng Xiêm gặp Cửu nhân dụ về nước. Cửu bất đắc dĩ phải đi theo. Vua Xiêm thấy trạng mạo của Cửu cho là lạ, vui mừng giữ lại, cho ở núi Vạn Tuế. Sau đó, nhân nước Xiêm có nội biến, Cửu bèn lén về Lũng Cả. Những dân xiêu tán qui phục với Cửu ngày một đông. Cửu thấy Lũng Cả đất hẹp không thể ở đông người được lại dời về Phương Thành. Thương nhân và lũ khác bốn phương theo đến đông nhiều.

" Có mưu sĩ là Tô Quân bảo Mạc Cửu:

Người Chân Lạp tính giảo quyệt gian trá, ít trung hậu, không thể lương tựa lâu được. Nghe nói chúa Nam triều có tiếng nhân nghĩa, uy đức vốn đủ tin, chi bằng đến gõ cửa xưng thần để gây thế bám rẽ vững chắc. Muôn một có biến cố gì thì nhờ vua giúp đỡ. Cửu cho lời bàn là phải.

Hiển Tông hoàng đế, năm thứ 17 Mậu Tý (1708), mùa thu, Cửu cùng thuộc hạ là bọn Trương Cầu, Lý Xá mang ngọc lụa đến cửa khuyết xưng thần, xin làm Hà Tiên trưởng, Chúa thấy Cửu có tướng mạo khôi ngô kỳ liệt tiến lui cung kính, cẩn thận, khen là trung thành, bèn ban sắc cho làm thuộc quốc đặt tên trấn ấy là Trấn Hà Tiên, trao Cửu chức Tổng binh quan, cho ấn vàng thao. Lại sai nội thần tiễn Cửu ra ngoài cửa thành. Ai cũng cho là vinh dự.

Cửu về trấn dựng thành quách, lập doanh ngũ, đặt liêu tá, làm nhiều nhà khách để tiếp đón hiền tài. Dân đến ở ngày càng đông, Hà Tiên trở thành một nơi đô hội nhỏ.

Trước đó mẹ Cửu là Thái thị nhớ con ngày một tha thiết, bèn từ Lôi Châu vượt biển đến, Cửu hiếu dưỡng đầy đủ, ở đã được lâu. Một hôm bà mẹ vào chùa Tam Bảo, cúng lễ phật rồi bỗng nghiễm nhiên trước phật mà hóa. Cửu nhân đúc tượng mẹ đặt vào chùa mà thờ. Tượng ấy đến nay vẫn còn.

Mùa xuân năm Ất Mùi (1715), quốc vương Chân Lạp là Nặc Thâm đem quân Xiêm đến đánh Hà Tiên, Cửu chống không nổi, chạy ra Lũng Cả. Nặc Thâm cướp lấy của cải đồ vật rồi bỏ đi. Cửu liền về Hà Tiên, đắp thành, đặt nhiều điếm canh, làm kế phòng thủ nghiêm ngặt.
Mùa hạ năm Ất Mão (1735), Cửu ốm chết, thọ hơn 80 tuổi, được tặng phong Khai trấn thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công..."

Theo sử Cao Miên thì: "Năm 1710, sau khi quốc vương Thomo Reachea bỏ thủ đô, Ang Em(Nặc Ông Em) lên ngôi. Đây là lần thứ nhì ngài trị vì. Trong ba năm 1711, 1716 và 1722, Ngài đẩy lui ba lần tấn công của Thomo Reachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đình Huế che trở và giúp về mặt quân sự Ngài phó thác việc phòng thủ các tỉnh Peam (Hà Tiên), Kampot, Kompong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên là Mạc Cửu. Họ Mạc gốc Quảng Đông di cư sang Cao Miên sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. ông gầy dựng được một sự nghiệp tô tát nhờ mở sòng cờ bạc. Ông cho xây dựng một pháo đài ở Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định đổ bộ giúp Thomo Reachea, bị quân Mạc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên đến năm 1715, Mạc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận cho người Việt Nam kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm. Về sau, hoàng triều Cao Miên lấy lại quyền hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù lao Phú Quốc vẫn còn bị hậu duệ của Mạc Cửu "cai trị cho vua Việt Nam".

Chính sử Chân Lạp cũng thừa nhận chủ quyền quản lý hợp pháp (theo quan niệm thời ấy) của chúa Nguyễn trên vùng đất này. Tuy nhiên suy cho cùng trong bối cảnh tranh dành quyền lực ở nội bộ hoàng gia Chân Lạp, các bên tranh chấp đều tìm kiếm liên minh để tăng thêm sức mạnh hầu thủ thắng, một phe dựa vào người Xiêm, còn phía kia dựa vào người Việt là điều đương nhiên.

Như vậy, đến năm 1708 trên vùng đất Thủy Chân Lạp đã có ba trấn (Trấn Biên, Phiên Trấn và Hà Tiên trấn) thuộc phủ Gia Định trực thuộc chính quyền của chúa Nguyễn (Đàng Trong).

Ngày nay vẫn còn mộ của Mạc Cửu và các con của ông ở Hà Tiên.
Mạc Thiên Tứ:
(Mạc Thiên Tích) là con trưởng của Mạc Cửu, còn có tên khác là Mạc Tông, sinh năm 1706, tại Lũng Kè, người Chân Lạp gọi là Peam. Tương truyền, trước khi Mạc Thiên Tứ ra đời, ở đầm Lũng Kè có nổi lên một tượng Phật cao bảy thước, tỏa hào quang rực rỡ. Lúc ấy có một nhà sư người Chân Lạp đi ngang qua, thấy vậy bảo là điềm tốt, báo hiệu hiền nhân xuất hiện. Mạc Cửu sai người vớt lên, bao nhiêu người cũng không mang lên được, nên đành phải xây một ngôi chùa nhỏ trên bờ để thờ. Ít lâu sau, bà Mạc hạ sang một con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, thấy hợp với điềm lành, Mạc Cửu đặt tên là Thiên Tứ (có nghĩa là trời cho).

Thuở nhỏ Mạc Thiên Tứ đã thông minh, nhanh nhẹn, tinh thông kinh điển, võ thuật. Tháng 5 năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu qua đời, sau khi an táng xong, thể theo yêu cầu của Mạc Thiên Tứ, Ninh vương Nguyễn Phước Thụ truy phong cho Mạc Cửu tước khai trấn Thượng trụ Đại tướng quân Cửu lộc hầu và cho Mạc Thiên Tứ tiếp tục làm Tổng binh Đại đô đốc trấn Hà Tiên kế nghiệp cha. Nhân dịp này chúa Ninh Vương còn ban tặng cho Mạc Thiên Tứ ba chiếc "thuyền long bài" không phải nộp thuế và còn cho phép mở lò đúc tiền để thông thương mua bán và tìm mua của quí nộp cho chúa. Đồng thời họ Mạc cũng được chúa Nguyễn lũy phong theo lệ "Thất diệp phiên hàn" (Bảy đời rào dậu cho quốc gia), lấy bảy chữ "Thiên tử công hầu bá tử nam" nối đời làm chữ lót đặt tên, lấy năm chữ "Kim mộc thủy hỏa thổ" trong ngũ hàng tương sanh khởi đầu từ bộ "Kim" nối đời đặt tên và thêm bộ "Ấp" vào chữ "Mạc" để tỏ ý không phải họ "Mạc" đã cướp ngôi nhà Lê.

Để phòng sự xâm nhập, cướp phá của Xiêm và Chân Lạp, Mạc Thiên Tứ tuyển mộ, luyện tập binh lính, thường xuyên tu bổ đào lũy, tăng cường việc bố phòng Hà Tiên. Mặt khác cho khai mở ruộng vườn, thiết lập chợ búa, khai thông bến bãi để thuyền bè ra vào thuận lợi. Thị trấn Hà Tiên được đặt tên là Phương Thành (còn gọi là Trúc Bằng thành). Thương nhân và lữ khách các nước tới ngày một đông đảo.

Mạc Thiên Tứ chiêu nạp văn tài các nơi, mở "Chiêu Anh Các", ngày ngày cùng bàn giảng sách, xướng họa thi thơ, nổi tiếng và còn lưu truyền đến nay trong hoạt động của thi đàn này là "Hà Tiên Thập Vịnh" (mười bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên). Văn đoàn này mở đầu cho việc phổ biến việc học ở đất Hà Tiên.

Đến năm 1739, cho rằng Mạc Thiên Tứ mới kế nghiệp cha, chưa đủ sức phòng bị Hà Tiên, quốc vương Chân Lạp Nặc Bôn mang quân xâm lấn. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu ngày đêm. Vợ Mạc Thiên Tứ là Nguyễn thị động viên phụ nữ trong thành nấu cơm nước, tiếp tế cho binh sĩ. Giặc tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách làm Đô đốc tướng quân, ban áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà Nguyễn thị cũng được phong làm phu nhân. Vào năm 1747, giặc biển cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên cũng bị Mạc Thiên Tứ dẹp yên.

Năm 1756, quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên Chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội và xin cho về nước. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước.

Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.

Không giống trường hợp Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho. Hai cha con họ Mạc là người trực tiếp mở mang và tổ chức khai thác đất Hà Tiên, một vùng đất rộng bao gồm phần lớn các tỉnh Tây Nam bộ ngày nay.

Mũi Nai Hà Tiên

Mũi Nai, tức Lộc Trĩ là một bãi biển đẹp nằm ven bờ vịnh Thái Lan, thuộc xã Mỹ Đức (giờ thuộc phường Pháo Đài), thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Đây cũng là một trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên được Mạc Thiên Tứ ca ngợi qua thi phẩm Lộc Trĩ thôn cư khá nổi tiếng.

Hiện nay, Mũi Nai đã được công ty cổ phần du lịch Mũi Nai Hà Tiên xây dựng thành khu du lịch hiện đại với nhiều công trình phục vụ du khách đến tham quan và vui chơi giải trí.Mũi Nai luôn được chọn là điểm đến trong các tour du lịch Hà Tiên.

Lộc Trĩ là tên gọi theo chữ Hán, có nghĩa là Mũi Nai. Tương truyền, từ thuở xa xưa, vùng đất này là mênh mông nước và mênh mông trời. Có một chú nai con thuộc giống nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say sưa ngắm cảnh đẹp của biển trời nên không kịp trở về rừng. Bỗng dưng, biển trời nổi sóng, chú nai con hoá thành tảng núi đá bên mép biển khơi. Ngày nay, khi du thuyền trên biển, dõi mắt nhìn vào bờ, du khách có thể trông thấy mỏm núi mang hình chú nai con đang uống nước. Thôn cư là một xóm cư dân. Vào thời họ Mạc trấn giữ đất Hà Tiên, có một thôn xóm của ngư dân bên cạnh mũi Nai, cuộc sống của họ rất sung túc. Ý chính của bài Lộc trĩ thôn cư là ca ngợi cảnh an cư lạc nghiệp, thái bình thịnh trị của dân cư nơi đây.
Bãi tắm Mũi Nai không rộng, cát không trắng nhưng lại êm đềm và thoai thoải, sóng không to, khí hậu ôn hoà, quanh năm mát mẻ. Cát biển Mũi Nai màu nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào cát, một màu đen nhánh hiện lên thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn, rất tốt cho da của bạn.
Đặc biệt, khi đến Mũi Nai, bạn đừng quên dùng thử ly thốt nốt mang hương vị đặc trưng của xứ sở Hà Tiên thơ mộng. Đây cũng là nét độc đáo ở Mũi Nai mà ít có nơi nào so sánh được.
Ngày nay đến với Mũi Nai, ngoài việc ngắm cảnh biển hoang sơ, du khách còn tham gia nhiều hoạt động vui chơi giải trí. Khu du lịch có công viên nước mini ngay sát biển dành cho thiếu nhi, phụ huynh có thể yên tâm cho con em vào vui đùa thoải mái. Hệ thống nhà hàng, khách sạn, quán cà phê....ở ngay trung tâm khu du lịch, có bãi đỗ xe miễn phí, thuận tiện cho tổ chức tiệc tùng, hội nghị.


Hòn Phụ Tử

Hòn Phụ Tử nằm cách bờ biển khoảng 100m. Nếu đứng trên bãi cát phía sau Chùa Hang nhìn chếch về phía tây bắc, Hòn Phụ Tử cách đó khoảng 500m.Tta có thể đi thuyền du lịch ra thám hiểm hòn đá này.


Đây là hai tảng đá khổng lồ giống như hai cột đá cao nghiêng nghiêng cùng một chiều (hơi ngả về hướng bắc) tượng trưng cho hình hai cha con quấn quýt bên nhau trông ra biển cả. Cột nhỏ (hòn Con) cao khoảng 30m, cột to (hòn Cha) cao khoảng 40m được nối vớ nhau bằng đế đá cách mặt nước biển khoảng 5m, ở giữa có một tảng đá nhỏ hơn nằm chen vào. Nhìn bên ngoài hai tảng đá bị bào mòn loang lổ nhưng hình dạng vẫn không thay đổi với thời gian.

Có một vẻ đẹp thiên phú hòa hợp với khung cảnh biển trời mênh mông nên Hòn Phụ Tử đã trở thành một trong những biểu tượng cho cảnh đẹp Kiên Giang. Xa ngoài khơi là Hòn Kiến VàngHòn Đá Lửa tạo thành một vòng cung xanh biếc gắn với nhiều truyền thuyết huyền bí, hấp dẫn mang đậm tính nhân văn về tình cha con. Theo truyền thuyết, xưa kia ở vùng biển Hà Tiên có một con thuồng luồng vô cùng hung bạo, chuyên tấn công các thuyền chài để ăn thịt ngư dân. Lúc bấy giờ có hai cha con làm nghề chài lưới sinh sống cạnh Chùa Hang. Người cha đau lòng trước cảnh này đã quyết định hy sinh thân mình để tiêu diệt thuồng luồng, loại bỏ tai ương cho bà con. ông đã dùng thuốc độc thoa vào cơ thể, nằm sát mé biển để làm mồi dụ con quái thú, vì vậy thủy quái đã trúng độc mà chết. Người con đi tìm cha, bắt gặp mảnh xác còn lại đã vô cùng đau xót, ôm thi hài của cha vào lòng khóc thương vô hạn. Chẳng may chất độc ngấm vào người anh làm anh cũng trúng độc rồi chết. Khi đó trời nổi mưa bão, sấm sét suốt mẩy ngày đêm, lạ thay, ngay nơi hai cha con ngã xuống đã mọc lên hai hòn đá lớn và nhỏ, người dân gọi hòn to là hòn Phụ, hòn nhỏ là hòn Tử, gọi chung là Hòn Phụ Tử.

Nước biển trong xanh ngăn ngắt, phong cảnh trời biển bao la hùng vĩ, lại được điểm xuyết bởi những hòn đảo kỳ thú, nơi đây thực sự xứng đáng là cảnh đẹp tiêu biểu của Hà Tiên.

Đảo Phú Quốc

Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất Việt Nam, nằm trong Vịnh Thái Lan, thuộc tỉnh Kiên giang. Vị trí địa lý của đảo được tóm tắt để dễ hình dung như sau: mũi Đông Bắc của đảo cách quốc gia láng giềng Cam-Pu-Chia 4 hải lý. Đảo cách thành phố Rạch Giá, thủ phủ của tỉnh Kiên Giang 62 hải lý về phía Đông và cách thị xã Hà Tiên là 25 hải lý.
Đảo Phú Quốc có hình tam giác, cạnh đáy nằm ở hướng Bắc, nhỏ dần lại ở phía Nam. Nếu tính đường chim bay theo hướng Bắc-Nam thì chiều dài lớn nhất của đảo là 49 km . Nơi rộng nhất trên đảo theo hướng Đông-Tây nằm ở khu vực Bắc đảo với chiều dài là 27 km. Chu vi của đảo Phú Quốc tổng cộng khoảng 130 km. Tổng diện tích của Phú Quốc là 56.500 ha. Có tác giả ví hình dáng đảo giống như một con cá đang bơi, đầu hướng về phương Bắc.
Về điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu trên đảo Phú Quốc thuộc loại nhịêt đới gió mùa (nóng ẩm, mưa nhiều,…), tuy nhiên do nằm trong vùng vị trí đặc biệt của vịnh Thái Lan nên ít bị thiên tai. Chính vì điều kiện khí hậu như vậy nên Phú Quốc có được một nguồn tài nguyên vô giá là rừng nhiệt đới, trong đó có rất nhiều giống, loài đặc hữu. Đây là vốn quý nhất để phát triển du lịch sinh thái trên hòn đảo này. Bên cạnh rừng, vì bản thân Phú Quốc là một hòn đảo và là đảo lớn, cho nên những nguồn tài nguyên khác như: tài nguyên biển, tài nguyên đất, tài nguyên nước,… ở đây có tiềm năng lớn để khai thác phát triển kinh tế.
Nhắc đến Phú Quốc thì không thể không nhắc đến những nghề nghiệp truyền thống của cư dân ở đây. Đó là nghề sản xuất nước mắm và nghề trồng hồ tiêu. Nước mắm Phú Quốc và hồ tiêu Phú Quốc là hai mặt hàng nổi tiếng thế giới lâu nay. Ngoài hai nghề này, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Phú Quốc là khai thác hải sản. Gần đây, nhờ hoạt động du lịch trên đảo phát triển nhanh chóng, một bộ phận cư dân chuyển sang tham gia cung cấp các dịch vụ phục vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn,…
Về mặt hành chính, đảo Phú Quốc các đảo nhỏ lân cận khác và 2 quần đảo An Thới, Thổ Chu hợp thành một huyện của Kiên Giang: huyện đảo Phú Quốc với tổng diện tích là 58.283 ha. Trong đó, quần đảo Thổ Chu nằm xa đảo Phú Quốc nhất (tương tương khoảng cách từ Rạch Giá ra Phú Quốc).
Ngày nay, hệ thống đường giao thông trên đảo đang phát triển nhanh chóng, cạnh đó là các tuyến vận chuyển hành khách từ đất liền ra đảo bằng cả đường hàng không lẫn hàng hải rất thuận tiện nên du khách có thể yên tâm đến cũng như đi lại trên đảo mà không gặp phải bất cứ trở ngại nào.

Suối Tranh Phú Quốc

Từ thị trấn Dương Đông Phú Quốc, theo tuyến đường Dương Đông – Hàm Ninh khoảng 10 km là đến được Suối Tranh. Ở đây có phong cảnh thiên nhiên đẹp với hoa cỏ, núi rừng, biển và suối, là địa điểm tổ chức cắm trại, dã ngoại thú vị. Đến đây, du khách có thể dựng lều bên bờ suối để nghỉ ngơi và tham gia nhiều hoạt động dã ngoại đặc sắc.
Suối Tranh bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh, do các khe nước nhỏ hợp thành, róc rách chảy trên núi, len lỏi qua biết bao rừng cây, gộp đá, thác ghềnh, với chiều dài khoảng 15 km. Con suối chảy hiền hoà bên những phiến đá nối tiếp nhau chạy dài xa tít. Có đoạn suối chảy qua các ghềnh đá tạo nên những con thác nhỏ với làn nước mềm mại, trắng xoá… Có một lối mòn dọc theo bờ suối, đủ để hai người nắm tay nhau đi dưới tán rừng xanh mát. Những bậc tam cấp trên lối đi vừa với mỗi bước chân nên du khách không có cảm giác mệt dù đang lên núi. Khung cảnh tựa như bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp (có lẽ vì thế mà người ta gọi là Suối Tranh).

Suối Tranh được bao bọc bởi cây cối xanh tươi, hoa thơm cỏ lạ. Những chòm cây hình thù khẳng khiu rắn rỏi, thân cây ngả màu xanh xám, mọc chen vào đá, những nhánh phong lan bám vào thân cây, nơi năm ba nhánh nơi một vài chòm, hoa vàng, hoa trắng….trông như những hột cúc áo khâu thành chuỗi, dày thưa đậm nhạt treo lơ lửng giữa không trung. Gần Suối Tranh còn có nhiều hang động huyền hoặc, kỳ bí như hang Dơi nằm trên núi cao chừng 200 m, sâu đến 50 m, có nhiều thạch nhũ đẹp, lạ mắt.
Đến với Suối Tranh, du khách có thể tắm suối, hay tắm biển thoả thích. Hoặc cũng có thể tựa mình trên những phiến đá rêu phong, lắng tay nghe tiếng suối chảy, chim ca trong một không gian thật bình lặng, chợt nhớ đến lời ca Trong bài “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên khá nổi tiếng: “Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối, Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu….” thật cảm thấy nao lòng.
Năm 2008, người dân địa phương đã từng bắt được một con cá ở suối này giống với cá lóc đồng, trọng lượng gần 10 kg. Trên đầu con cá này có ba vết chấm, giống hệt những vết chấm huệ in trên đầu của các nhà sư. Lưng con cá uốn cong khiến cho cái đuôi lúc nào cũng nổi phều trên mặt nước. Hiện con cá do Ban quản lý ở khu du lịch Suối Tranh quản lý. Cá đang được nuôi trong một bể xi măng, để phục vụ cho khách du lịch đến tham quan. Một du khách nước ngoài đã đến ngã giá khoảng 1.000 đô la Mỹ, nhưng khu du lịch quyết định không bán, giữ lại làm cá cảnh. Người quản lý con cá lóc cho biết: “Mấy chục năm nay trên đảo nước mặn Phú Quốc này mới bắt được con cá lóc nước ngọt lớn và kỳ lạ đến vậy”.

Dinh Cậu Phú Quốc

Nói đến đảo Phú quốc dễ dàng cho du khách hình dung nhất chính là Dinh Cậu. Hình ảnh Dinh Cậu , mũi đá độc đáo nằm ngay cửa sông Dương Đông bao năm qua vẫn sừng sững với thời gian và vẫn cùng du khách đón hoàng hôn mỗi buổi chiều là nên hình ảnh đặc trưng của ngành du lịch đảo Phú Quốc.
Từ Truyền Thuyết
Chuyện kể rằng người dân Phú Quốc  sống bằng nghề chài lưới, nhiều ngư dân ra khơi gặp sóng dữ đã mãi mãi không về.Vào một ngày nọ bỗng nổi lên một mũi đá giữa đại dương xanh thẳm. Cho đây là điềm linh ứng, nhân dân đã xây một ngôi đền để cầu mong được thần linh che chở.
Dinh Cậu ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, nằm cách thị trấn Dương Đông 200 mét về phía Tây. Từ bãi cát trắng xóa leo lên 29 bậc đá là đến miếu thờ. Uy nghi trên nóc dinh là hình ảnh “Lưỡng Long Tranh Châu”. Bên trong chánh điện thờ Chúa Ngọc nương nương và tượng thờ hai “Cậu” – những cao nhân bảo vệ ngư dân vùng biển đảo. Trước mỗi chuyến ra khơi hay vào dịp lễ tết, người dân đảo lại đến thắp nhang cầu mong cho những chuyến đi biển được bình an. Hàng năm vào ngày 15 tháng 10 âm lịch và ngày 16 tháng 10 âm lịch, nhân dân mở hội lớn, có rất đông người tham dự.
Đến Biểu Tượng hiện tại
Ngành du lịch Phú quốc đang phát triển , Dinh cậu lại càng trở thành địa danh quen thuộc trong các Tour Phú quốc . Quý khách đến đây mỗi buổi chiều tà để ngắm hoàng hôn trên biển hay cầu bình an dưới sự che trở tâm linh của tục thời Bà Cậu . Dưới chân Dinh Cậu , hàng quán xôn xao , tấp nập mua bán và du khách tạo nên không khí sôi động mỗi buổi chiều tạo cơ hội mưu sinh cho nhiều người dân trên đảo.
Nét đẹp quyến rũ của Dinh Cậu từ trong câu truyện đến không gian tâm linh trong Dinh , nét đẹp của Dinh Cậu còn đến từ không gian bao la của trời biển , sự tuyệt vời của mẹ thiên nhiên để giờ đây hình ảnh Dinh Cậu mãi mãi là biểu tượng của đảo Phú Quốc.


Nhà Tù Phú Quốc


Vốn là một trại giam do thực dân Pháp xây dựng để giam cầm những người Việt, năm 1967, chính quyền Sài Gòn xây dựng lại Nhà lao Cây Dừa hay còn gọi là Trại giam tù binh chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam tù binh cộng sản Phú Quốc trên diện tích khoảng 400ha. Đây là nơi giam giữ “cán binh cộng sản” lớn nhất miền Nam với hơn 32.000 tù binh từng bị giam giữ. Có lúc lên tới 40.000 nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ.
Nhà tù Phú Quốc có tất cả 12 khu được đánh số từ 1 đến 12, do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có thể chứa khoảng 3.000 tù nhân. Mỗi khu trại giam được chia làm nhiều phân khu, mỗi phân khu chứa được 950 tù binh, riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan.
Bao quanh mỗi khu nhà lao là trùng trùng hàng rào kẽm gai 10 – 15 lớp ken cứng với hệ thống điện chiếu sáng dày đặc. Bên cạnh bộ máy cai ngục, lúc cao nhất tới bốn tiểu đoàn lính gác trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện cơ động, canh giữ, tuần tiễu ngày đêm. Ngoài biển thường xuyên có một hải đoàn hải quân tuần tiễu vòng ngoài…
Lực lượng canh giữ tù binh đông đến mức 2 người tù có 1 người lính trông giữ. Bộ máy đàn áp lên đến 4.000 người gồm cả hải, lục, không quân. Với bộ máy này, địch tin rằng không những đàn áp mà đánh bại bất cứ một lực lượng ngoại nhập nào tính liều mạng giải phóng tù binh nhà lao Cây Dừa.
Nhà tù Phú Quốc là một bằng chứng sống động ghi dấu tội ác vô cùng dã man của chế độ thực dân, đế quốc xâm lược, đồng thời nói lên tinh thần bất khuất đấu tranh kiên cường của các chiến sĩ cách mạng. Tù binh chiến tranh tại nhà tù Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn rất dã man như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống… Song với ý chí kiên cường, dũng cảm mưu trí, anh em đã đối phó với chúng bằng nhiều hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, phân hoá hàng, ngủ địch, diệt ác ôn, tổ chức vượt ngục…

Đảo Con Thỏ

Kep là một thành phố biển nổi tiếng, là điểm đến cho các kỳ nghỉ cuối tuần với bờ biển gây ấn tượng và các villa sang trọng của một vài người thuộc tầng lớp thượng lưu ở Campuchia. Ngày nay, các villa đã cũ và trong tình trạng đổ nát. Có lẽ như vậy tốt hơn cho Kep, vì nó đã trở thành một Kep bình yên và trong lành nhưng vẫn hấp dẫn ngay cả khi không còn những Villa sang trọng một thời. Nếu đã ở Kep thì bạn nên dành những giây phút thư giãn và nghỉ ngơi ở vài hòn đảo của Kep: Koh Svay, Koh Tbal, Koh Pau và Koh Tunsay - đảo “Thỏ”

Koh Tunsay - đảo Thỏ (Rabit Island)
Là hòn đảo hoang sơ và lớn nhất ở Kep, cách trung tâm thành phố khoảng 20 phút đi tàu. Ở đây bạn sẽ được nghỉ ngơi đúng nghĩa. Không xe cộ, không tiếng ồn ào, không có hàng rong làm phiền bạn, chỉ biển và bạn mà thôi. Nước biển ở đảo Thỏ trong màu xanh dương, cát vàng và đặc biệt không có sóng nhờ các hòn đảo nhỏ xung quanh che chắn. Không có khách sạn nhưng có các bungalow nhỏ đáp ứng các điều kiện cơ bản, giá khoảng 5$ - 10$/bungalow.
Giá tàu từ Kep ra Rabit Island khoảng 8$/người khởi hành từ 8h sáng và về lúc 4h chiều. Các bạn có thể mua vé tại một số công ty du lịch ở đây hay tại Chợ Cua (Crab Market)

web: www.dulichhatien.net

Tàu Đi Ba Hòn Đầm


Điểm xuất phát là Khu du lịch chùa Hang - hòn Phụ Tử. Thông thường, khách chỉ lên dịch vụ tàu du lịch tham ngắm hòn Phụ Tử cận cảnh, chạy vòng quanh hòn Ông, hòn Bà rồi vô hang Tiền, hang Kim Cương... thưởng thức vẻ đẹp thuần khiết của thạch nhũ. Chương trình này thường chỉ kéo dài trong vòng một giờ. Nhưng nhiều du khách chọn hoang đảo để có một ngày nghỉ đúng nghĩa. Quần đảo Bà Lụa còn rất hoang sơ đến mức du khách có thể làm một “Robinson” trên đảo.
Quãng đường rong chơi hơn một giờ lênh đênh trên biển, khách sẽ vô cùng thích thú thưởng lãm những hình thù kỳ quái của các đảo được hình thành từ đá vôi. 41 hòn đảo, mỗi hòn mang một dáng dấp riêng. Cách gọi tên được dựa trên hình dáng, đặc điểm của đảo như cách cư xử vốn rất chân chất của người miệt biển Nam bộ; nghe qua có thể hình dung được: hòn Móng Tay, hòn Kiến Vàng, hòn Lô Cốt, hòn Đá Lửa, hòn Kèo Ngựa, hòn Mâm Xôi, hòn Chén...

Tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho vùng đất này những sản vật thiên nhiên quý giá. Du khách không “ngoa” gọi đây là một Hạ Long, Phong Nha giữa đồng bằng Nam bộ sau khi đi qua các đảo này...

Liên Hệ Đặt Tàu:  Hotline 0939440235 - 0944440235
Mail:  levantoankg@gmail.com
Web: www.dulichhatien.net

Ba Hòn Đầm

Ba Hòn Đầm thuộc ấp Hòn Ngang, xã Sơn Hải, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Đây là nhóm đảo thuộc quần đảo Bà Lụa - nơi được thiên hạ mệnh danh là “Hạ Long phương Nam”. Ba Hòn Đầm gồm các đảo (người địa phương gọi là “hòn”), như sau: Hòn Đầm Đước, Hòn Đầm Dương và Hòn Đầm Giếng.
“Chúa đảo” Hòn Đầm Đước sau 1975 là ông Phạm Văn Mực, Trưởng ấp Hòn Ngang, nên người xã Sơn Hải đều gọi hòn này là Đầm Ông Mực. Người ta gọi Hòn Đầm Đước vì mấy cái đầm trên hòn này có cây mắm, nhiều nhất là cây đước mọc - là nơi khách du lịch xăn ống quần tìm bắt hải sản phục vụ bữa tiệc dã ngoại của mình.

Hòn Đầm Đước rộng 12ha, là nơi được “du lịch hóa” tương đối bài bản với nhiều nhà nghỉ, mắc nhiều võng để du khách thư giãn ngắm cảnh. Nơi đây tổ chức du lịch đầu tiên vào năm 2007. Tàu thuê 3tr500/tàu 20 khách. Nghỉ đêm 200.000 đồng/chòi (trải chiếu, giăng mùng). Nếu đem lều ra thì tự chọn chỗ căng lều ngủ, không tốn tiền. Khách đi mò sò, nghêu đem lên nướng. Ăn no có dịch vụ: 30.000 đồng/kg gạo nấu thành cơm. Cá bớp 300.000 đồng/kg. Cá mú 350.000 đồng/kg. Cá bớp, cá mú nuôi lồng bè, giá tiền tính luôn khi thành món, kèm rau. Tắm nước ngọt 10.000 đồng/người.

Đảo Hải Tặc Hà Tiên

Quần đảo Hải Tặc hay còn gọi là quần đảo Hà Tiên, nằm giữa vùng biển từ thị xã Hà Tiên đến Phú Quốc. Quần đảo có 16 hòn đảo nằm gần nhau. Trong đó, Hòn Tre Lớn (Hòn Đốc) là trung tâm xã đảo Tiên Hải có dân cư sinh sống đông đúc.

Các bạn chỉ có một cách để ra đến đảo bằng tàu đò. Mỗi ngày có hai chuyến tàu từ Hà Tiên đến quần đảo Hải Tặc khởi hành lúc 9h00 và 14h30, chuyến ngược lại lúc 9h00 và 15h00 cùng ngày.
        Trên đường ra thăm quần đảo, bạn sẽ được trải nghiệm cảm giác tròng trành của tàu lướt trên sóng và thoả thích ngắm nhìn vùng biển Hà Tiên mênh mông. Sở dĩ quần đảo có tên đặc biệt như vậy là vì vào những thế kỉ trước, bọn cướp biển thường đến đây để xây dựng sào huyệt và cướp phá tài sản của ngư dân. Đến đầu thế kỉ 20, nạn cướp biển vẫn hoành hành. Rất nhiều vàng bạc, châu báu được giấu bí mật trên đảo. Năm 1981, người dân trên đảo đã phát hiện hai người đến đây với đầy đủ dụng cụ dò tìm, đào vàng.
        Cách đây chừng 10 năm, đảo trung tâm còn khá hoang sơ và ít người ở. Nhưng khoảng thời gian gần đây, đảo đã được đầu tư xây dựng đường bộ bao quanh đảo rất thuận tiện để các bạn tham quan.
Một trong những hoạt động không thể bỏ qua khi ở lại đảo là câu mực, cá ban đêm và lặn biển bắt sò, ghẹ, ốc… Khi bạn ở lại tại nhà dân, bạn có thể xin họ cho theo thuyền ra khơi để thử những cảm giác mới lạ.
Thức ăn trên đảo rất ngon và giá khá mềm. Đảo gần như có đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt giống trên đất liền, chỉ có điều điện được cung cấp làm 2 đợt mỗi ngày. Đợt 1 từ 5h - 10h sáng, đợt 2 từ 17h - 22h.


Núi Tà Lơn Campuchia

Du lịch đến Bokor có lẽ là tour phổ biến nhất tại Kampot. Bokor Hill Station trên Phnom Bokor (núi Bokor) là một quần thể các tòa nhà kiến trúc thời Pháp trên đỉnh núi gồm khách sạn, sòng bạc, nhà thờ, dinh thự hoàng gia… xây dựng vào đầu những năm 1920. Trong thập niên 1990, người ta đã ví Bokor như là “một nơi kỳ lạ nhất trên thế giới” và “thành phố ma” vì vẻ hoang tàn và kỳ bí của nó.


Bokor vào thời thịnh vượng đã từng là nơi nghỉ dưỡng của các quan chức Pháp và du khách nước ngoài ở Đông Dương. Đó là một khu nghỉ dưỡng trên đồi với khí hậu ôn hòa tránh cái nóng nhiệt đới. Nơi đây bị bỏ hoang nhiều năm nên đã bị đổ nát nghiêm trọng. Tuy nhiên, du khách có thể ngắm quang cảnh hùng vĩ của bãi biển và hưởng thụ không khí mát mẻ. Núi Bokor được bao phủ bởi rừng rậm và bạn có thể tham gia các chuyến khám phá rừng. Nhiều du khách từng thấy các chú voi và thú hoang dã. Hiện chính quyền điạ phương đang có kế hoạch phục hồi lại khu du lịch này.
Bài Vè Tà Lơn:

Tà Lơn xứ rày tạm con ở
Làm lưới chài ngày tháng náu nương...
...Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú,                                                                
Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc.
Nay con tới nguồn cay nước đục,
Loại thú cầm trông thấy chỉnh ghê,
Giống chằng tinh lai vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
Cặp giả nhân kêu tiếng rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ lân mặt đỏ như vàng,
Nhìn phía trước, ông voi đen huyền như hổ.
Hướng đông bắc, con công như tố hộ.
Cõi tây nam, gà rừng gáy ó o...
Ngày nay, các loài thú ấy đã gần như vắng bóng.